Một nghiên cứu về hai loại thuốc tim mạch được sử dụng rộng rãi – cilostazol và isosorbide mononitrate – trên hơn 350 bệnh nhân đã xác nhận hai loại thuốc này được dung nạp tốt và an toàn cho những người bị đột quỵ ở một mạch máu nhỏ nằm sâu trong não. Kết quả cho thấy các loại thuốc này có thể giúp cải thiện kết quả điều trị của bệnh nhân, theo khoa học mới nhất sơ bộ được trình bày hôm nay tại Hội nghị Đột quỵ Quốc tế của Hiệp hội Đột quỵ Hoa Kỳ năm 2023. Cuộc họp, được tổ chức trực tiếp tại Dallas và hầu như từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 2 năm 2023, là một cuộc họp cuộc họp hàng đầu thế giới dành cho các nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng dành riêng cho khoa học về đột quỵ và sức khỏe não bộ.
Theo nghiên cứu trước đây, bệnh mạch máu não nhỏ chiếm khoảng 20% -25% trong tất cả các trường hợp đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Đột quỵ lỗ khuyết, hay đột quỵ mạch máu nhỏ, xảy ra khi lớp lót bên trong của các mạch máu nhỏ bên trong não bị tổn thương, dẫn đến đột quỵ hoặc chứng mất trí nhớ.
“Hiện tại, không có phương pháp điều trị nào được chứng minh để ngăn ngừa kết quả xấu sau đột quỵ lỗ khuyết, vì vậy mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu này là đánh giá xem liệu các loại thuốc có phương thức tác động tiềm ẩn trên lớp lót bên trong của mạch máu có thể giúp cải thiện chức năng của mạch máu nhỏ và ngăn ngừa hoặc làm chậm Joanna M. Wardlaw, MD, FAHA, giáo sư về hình ảnh thần kinh ứng dụng, nhà tư vấn danh dự về thần kinh học, trưởng khoa khoa học hình ảnh thần kinh và giám đốc của Edinburgh Imaging tại Đại học Edinburgh ở Edinburgh, Scotland, cho biết tổn thương não lâu dài sau đột quỵ lỗ khuyết. Cô cũng là chủ tịch sáng lập của Viện nghiên cứu chứng mất trí nhớ Vương quốc Anh.
Các loại thuốc trong nghiên cứu thường được kê đơn cho các tình trạng tim khác. Isosorbide mononitrate được sử dụng để điều trị đau ngực bằng cách làm giãn mạch máu và giảm huyết áp. Cilostazol cải thiện lưu lượng máu bằng cách làm giãn mạch máu và giảm đông máu. Nó thường được kê toa cho những người mắc bệnh động mạch ngoại vi – tình trạng thu hẹp các động mạch ngoại vi mang máu từ tim đến các bộ phận khác của cơ thể.
Nghiên cứu này, được gọi là Thử nghiệm Can thiệp LACunar 2 (LACI-2), là thử nghiệm lớn thứ hai từ trước đến nay đối với đột quỵ lỗ khuyết. Nó kiểm tra xem một thử nghiệm như vậy có khả thi ở những người bị đột quỵ lỗ khuyết hay không và liệu thuốc có được dung nạp tốt trong một năm sau đột quỵ lỗ khuyết hay không. Các nhà nghiên cứu cũng phân tích sự an toàn và các kết quả khác, bao gồm đột quỵ tái phát, suy giảm nhận thức, sự phụ thuộc, tâm trạng và chất lượng cuộc sống. Thông tin chi tiết này cần thiết cho giai đoạn nghiên cứu tiếp theo – thử nghiệm giai đoạn 3, bao gồm nhiều người tham gia nghiên cứu hơn. Kết quả phân tích về tình trạng nhận thức sau một năm sẽ được trình bày riêng trong cùng một phiên Sự kiện chính vào ngày 9 tháng 2.
Từ tháng 2 năm 2018 đến tháng 5 năm 2022, các nhà nghiên cứu đã tuyển chọn 363 người trưởng thành bị đột quỵ lỗ khuyết từ 26 trung tâm đột quỵ trên khắp Vương quốc Anh. Những người tham gia có độ tuổi trung bình là 64 tuổi và 31% là phụ nữ. Tất cả những người tham gia nghiên cứu tiếp tục dùng thuốc theo toa thông thường của họ theo hướng dẫn đột quỵ, bao gồm những thuốc làm giảm đông máu, hạ huyết áp và/hoặc giảm cholesterol – tất cả đều có thể làm giảm nguy cơ đột quỵ thứ hai hoặc tái phát.
Những người tham gia được phân ngẫu nhiên vào một trong bốn nhóm điều trị: 40-60 mg/ngày isosorbide mononitrate đường uống đơn độc; 200 mg/ngày uống cilostazol đơn thuần; cả hai loại thuốc; hoặc không dùng thuốc trong một năm. Những người tham gia đã hoàn thành các cuộc khảo sát qua điện thoại sau 6 và 12 tháng để đánh giá tình trạng sức khỏe, bao gồm đột quỵ tái phát và các vấn đề về tim, kiểm tra nhận thức, triệu chứng, khảo sát chất lượng cuộc sống và chụp ảnh não sau 12 tháng.
Nghiên cứu đã đạt được các mục tiêu ban đầu để xác định xem liệu một thử nghiệm lớn hơn có khả thi hay không và liệu thuốc có an toàn và có thể dung nạp được hay không. Sau một năm, 358 người trưởng thành vẫn tham gia nghiên cứu, với 95% người tham gia dùng ít nhất một nửa liều thuốc được kê cho thử nghiệm. Tiêu chí an toàn cũng được đáp ứng: bốn người tham gia đã chết; có bốn đợt chảy máu ngoài não; không bị ngã hay chóng mặt quá mức. Một số người tham gia trải qua các triệu chứng nhẹ (chẳng hạn như đau đầu), điều đã được dự kiến.
Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy một số lợi ích tiềm năng từ các nhóm dùng thuốc, bao gồm dữ liệu cho thấy nhóm dùng isosorbide mononitrate và cilostazol kết hợp đã giảm mức độ hỗ trợ mà họ cần trong các công việc sinh hoạt hàng ngày, giảm suy giảm nhận thức và tác động tích cực đến tâm trạng và chất lượng cuộc sống. Isosorbide mononitrate đơn độc làm giảm đột quỵ tái phát, suy giảm nhận thức và cải thiện chất lượng cuộc sống; cilostazol một mình làm giảm nhu cầu hỗ trợ hàng ngày.
Dường như có một số lợi ích tiềm năng sẽ cần được xác nhận trong thử nghiệm giai đoạn 3 lớn hơn. Chúng tôi đã thấy những gợi ý tốt về hiệu quả, đặc biệt đối với isosorbide mononitrate trong việc giảm đột quỵ tái phát và suy giảm nhận thức, đồng thời chúng tôi cũng nhận thấy rằng cả hai loại thuốc này dường như có tác dụng hiệp đồng, thay vì chống lại bất kỳ lợi ích nào. Điều này rất đáng khích lệ vì trước đây chưa có nghiên cứu nào tìm thấy bất kỳ loại thuốc nào có ảnh hưởng tích cực đến tình trạng suy giảm nhận thức trong đột quỵ do bệnh mạch máu nhỏ. Vì vậy, chúng tôi thận trọng hy vọng rằng những loại thuốc này có thể có tác dụng rộng hơn đối với các loại bệnh mạch máu nhỏ khác.”
Joanna M. Wardlaw, MD, FAHA, điều tra viên nghiên cứu chính
Nghiên cứu có một số hạn chế, bao gồm nghiên cứu tương đối nhỏ ở 363 bệnh nhân và không được thiết kế để đo lường hiệu quả, do đó, kết quả cho thấy hiệu quả nên được diễn giải một cách thận trọng. Thử nghiệm là nhãn mở, có nghĩa là những người tham gia và bác sĩ lâm sàng biết họ đang dùng (những) loại thuốc và liều lượng nào; tuy nhiên, các nhân viên theo dõi nghiên cứu không biết bệnh nhân được chỉ định điều trị bằng phương pháp nào. Ngoài ra, các nhà điều tra đã không thu thập dữ liệu về chủng tộc hoặc dân tộc, và nhiều nhóm dân tộc bị nghi ngờ là không được đại diện.
Đồng tác giả nghiên cứu là Philip M. Bath, D.Sc., FAHA, Giáo sư Y khoa của Hiệp hội Đột quỵ Vương quốc Anh tại Đại học Nottingham. Danh sách các tiết lộ của tác giả có sẵn trong bản tóm tắt.
Nghiên cứu được tài trợ chủ yếu bởi Quỹ Tim mạch Anh, với sự hỗ trợ của Hiệp hội Alzheimer Vương quốc Anh, Viện Nghiên cứu Chứng mất trí nhớ Vương quốc Anh, Hiệp hội Đột quỵ, Fondation Leducq, NHS Research Scotland và Mạng lưới Nghiên cứu Lâm sàng của Viện Nghiên cứu Sức khỏe Quốc gia Vương quốc Anh. Công trình được thực hiện bởi Đại học Edinburgh và Đại học Nottingham.
Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ
Source link